Abstract
Nghiên cứu định tính nhằm mô tả hỗ trợ của gia đình trong chăm sóc sức khỏe, đặc biệt trong điều trị HIV và nghiện chắt của nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV tại Hà Nội. Kết quả phân tích cho thấy gia đình chủ yếu hỗ trợ tài chính, tinh thần và chăm sóc sức khỏe trong khi các hỗ trợ thông tin liên quan đến điều trị HIV và nghiện chất cho nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV của gia đình còn khá hạn chế. Hỗ trợ của gia đình cho nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV khác nhau giữa các giai đoạn sử dụng ma túy, nhiễm HIV, điều trị HIV và điều trị nghiện chất. Đáng chú ý là việc tiết lộ tình trạng nhiễm HIV đã giúp các nam tiêm chích ma túy nhận được nhiều hơn sự hỗ trợ từ gia đình. Các can thiệp nhằm nâng cao hiệu quả điều trị HIV và điều trị nghiện chất cho nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV cần tính đến sự tham gia hỗ trợ của gia đình.
Keywords: Tiêm chích ma túy nhiễm HIV, hỗ trợ gia đình, nghiện chất
Keywords: HIV-infected male injection drug users, family support, substance abuse
Summary
Qualitative research describes how families have provided supports regarding health care, including HIV care and substance abuse treatment, for HIV-infected male injection drug users (HIV-infected IDUs) in Hanoi. Research analysis showed that family members have provided financial, emotional and health care supports rather than information support related to HIV care and substance abuse treatment for HIV-infected IDUs. Family supports for HIV-infected IDUs were different among the phases of using drug, HIV infection/treatment and substance abuse treatment. Notably, HIV-infected IDUs reported that they had received more supports from their family members since they disclosed their HIV status. Most HIV-infected IDUs participated in this study were satisfied with the family supports. Interventions for improving effectiveness of HIV and substance abuse outcomes among HIV-infected IDUs need to include family involvement.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại Việt Nam, đại dịch HIV vẫn tập trung chủ yếu trong nhóm sử dụng ma túy. Mặc dù tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm đối tượng này đã có xu hướng giảm đáng kể, từ 29,3% năm 2002 xuống còn 10,3% năm 2013 nhưng trong số người nhiễm HIV được phát hiện trên toàn quốc năm 2013 vẫn còn 39,2% là đối tượng tiêm chích ma túy [1]. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong điều trị nghiện chất và chăm sóc người nhiễm HIV nhưng tỷ lệ đối tượng tiêm chích ma túy nhiễm HIV tiếp cận với các dịch vụ này còn thấp và muộn, duy trì và tuân thủ điều trị kém [2; 3]. Theo một nghiên cứu gần đây, những bệnh nhân có tiền sử tiêm chích ma túy có số lượng CD4 thấp hơn, tỷ lệ nhiễm lao và virus viêm gan B cao hơn khi bắt đầu liệu trình điều trị kháng virus (ARV – antiretrovirus), tỷ lệ duy trì điều trị sau 48 tháng thấp hơn so với nhóm không có tiền sử tiêm chích ma túy [3]. Một trong những vấn đề cần quan tâm trong các chương trình can thiệp dành cho nhóm tiêm chích ma túy nhiễm HIV hiện nay là làm thế nào để có thể huy động các nguồn lực khác nhau nhằm cải thiện khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụđiều trị nghiện chất và điều trị HIV của các đối tượng.
Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh hỗ trợ gia đình là một yếu tố thúc đẩy việc duy trì điều trị ARV trong nhóm tiêm chích ma túy nhiễm HIV [4] và thiếu sự hỗ trợ của gia đình khiến việc tiếp cận dịch vụ điều trị ARV của các đối tượng này gặp khó khăn [5]. Tại Việt Nam, chưa có nhiều các nghiên cứu về hỗ trợ của gia đình trong việc chăm sóc sức khỏe liên quan đến HIV và điều trị nghiện chất của đối tượng tiêm chích ma túy nhiễm HIV. Các nghiên cứu tại Việt Nam về gia đình trên nhóm đối tượng này tập trung chủ yếu phân tích mối quan hệ của gia đình lên sức khỏe tâm thần của đối tượng [6] hay những thách thức liên quan đến kỳ thị mà bản thân họ và gia đình đang phải đối mặt [7] trong khi các phân tích về hỗ trợ gia đình cho nhóm tiêm chích ma túy nhiễm HIV còn ít và chưa đề cập nhiều đến các hỗ trợ về sức khỏe, chăm sóc HIV và điều trị nghiện chất [8]. Nghiên cứu này nhằm mô tả những hỗ trợ của gia đình dành cho nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV tại Hà Nội, trong đó bao gồm các hỗ trợ về điều trị HIV và nghiện chất; qua đó cung cấp các thông tin hữu ích cho việc xây dựng chiến lược huy động các nguồn lực cộng đồng trong chăm sóc và điều trị cho người tiêm chích ma túy nhiễm HIV, đặc biệt trong bối cảnh nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế đang bị cắt giảm dần [9].
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Địa bàn và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại thành phố Hà Nội trong thời gian từ tháng 10/2014 đến tháng 06/2015.
2. Đối tượng
Đối tượng và cỡ mẫu
Đối tượng nghiên cứu gồm 3 nhóm: nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV (30 người), các thành viên gia đình của nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV (13 người), cán bộ y tế và đồng đẳng viên (15 người). Trong đó, nhóm nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV được chia đều thành ba nhóm nhỏ: đang điều trị methadon, đang điều trị ARV và nhóm “cộng đồng” – là nhóm hiện chưa sử dụng dịch vụ methadon và điều trị ART.
Cách thức tuyển chọn đối tượng
(1) các cán bộ y tế và đồng đẳng viên tại các cơ sở điều trị methadon và các cơ sở điều trị ngoại trú HIV (OPC – outpatient clinic) được gửi thư mời hoặc gọi điện mời tham gia nghiên cứu; (2) các nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV được tuyển chọn qua nhiều hình thức, bao gồm dán pa-nô giới thiệu về nghiên cứu tại các cơ sở điều trị; phân phát tờ rơi về nghiên cứu và qua sự giới thiệu của cán bộ y tế và đồng đẳng viên; (4) các thành viên gia đình được tuyển chọn thông qua sự giới thiệu của các nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV.
3. Phương pháp
phương pháp định tính, thu thập thông tin qua các cuộc phỏng vấn sâu đối tượng nghiên cứu.
Nội dung thông tin thu thập
chủ yếu tập trung vào (1) trải nghiệm của các nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV về mối quan hệ với gia đình, sự tham gia và hỗ trợ của gia đình trong cuộc sống và trong chăm sóc, điều trị nghiện chất và HIV và (2) các loại hỗ trợ mà gia đình và các thành viên trong gia đình cung cấp cho nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV. Trong nghiên cứu này, gia đình được coi là một nguồn cung cấp các hỗ trợ xã hội (social support) [10] cho nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV. Dựa trên cách phân loại của các loại hình hỗ trợ xã hội [11], chúng tôi chia hỗ trợ gia đình thành các loại hỗ trợ tình cảm và cảm xúc (emotional support), hỗ trợ thông tin (information support), và hỗ trợ phương tiện (instrumental support) – trong đó bao gồm hỗ trợ tiền bạc, vật chất và hỗ trợ chăm sóc sức khỏe.
3. Xử lý số liệu
sử dụng phần mềm ATLAS.TI 7.0 đ ể mã hóa và phân tích các dữ liệu định tính.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được Hội đồng đạo đức của Trường Đại học Y Hà Nội (số 144/ HĐĐĐĐHYHN) và Đại học Columbia, Hoa Kỳ (số IRB-AAAN3951) thẩm định và xét duyệt. Đối tượng tham gia hoàn toàn tự nguyện. Các cuộc phỏng vấn đều xin phép đối tượng để ghi âm. Mỗi băng ghi âm đều được mã hóa, giải băng và loại bỏ hết các thông tin cá nhân có thể nhận dạng đối tượng phỏng vấn.
III. KẾT QUẢ
1. Một số đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Phần lớn đối tượng nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV ở độ tuổi từ 30 - 35 (chiếm 43,3%), chưa lập gia đình (46,6%). Hơn một nửa đối tượng có việc làm (56,8%), chủ yếu là lao động tự do hoặc tham gia phụ giúp vào công việc buôn bán của gia đình. Thời gian sử dụng ma tuý dao động từ 5 - 22 năm với 80% sử dụng trên 10 năm. Có 40% đối tượng tham gia đồng thời cả chương trình điều trị thay thế nghiện chất dạng thuốc phiện bằng methadon và điều trị ARV (40%).
2. Các hỗ trợ cho nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV của gia đình
2.1. Hỗ trợ tài chính và vật chất
Gần một nửa số nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV tham gia vào nghiên cứu không có việc làm (43,3%), do vậy họ chủ yếu dựa vào sự hỗ trợ của gia đình. Một số khác mặc dù có việc làm nhưng vẫn cần đến sự trợ giúp của gia đình vì số tiền họ kiếm được không đủ đáp ứng nhu cầu cá nhân. Mức độ hỗ trợ đa dạng, tùy thuộc nhiều vào khả năng kinh tế của gia đình và người hỗ trợ. Thông thường, mẹ và vợ là những người chính cung cấp tiền bạc và vật chất cho đối tượng, trong khi anh em ruột và họ hàng ít khi hỗ trợ hơn:
H: Trong tất cả những người mà anh vừa liệt kê thì cái người nào là người mà anh có thể nhờ cậy được nhièu nhất trong chăm sóc, điều trị HIV và nghiện?
TL: Chăm sóc, đièu trị HIV thì cái đấy quan trọng lắm…Với anh thì ngoài mẹ ra thì ít người hỏi han. Anh nói thật hoặc là ai có vợ thì người ta quan tâm. Chứ còn bạn bè ít người quan tâm đến cái đấy lắm […] Nói chung với bọn anh thì hầu như ai cũng cần người mẹ. Tại vì nghiện ngập có lúc nọ lúc kia hoặc là tù tội hoặc là thế này thế nọ. Chỉ có mẹ là dựa dẫm được;
H: Thế thì như anh nói thì thường cái người mà quan tâm và có thể hỗ trợ nhiều nhất với người sử dụng ma tuý là mẹ?
TL: Mẹ hoặc là vợ. Chỉ hai người. Anh em ít lắm, hoặc là em gái, chị gái thôi. Chứ còn anh em trai ít. Tại vì mày làm mày chịu (ART 01a, 42 tuổi).
Các hình thức và mục đích hỗ trợ về tài chính và vật chất của gia đình cho nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV cũng khác nhau qua các giai đoạn đối tượng sử dụng ma túy (chưa nhiễm HIV), nhiễm HIV/điều trị ART và điều trị methadon. Trong giai đoạn đối tượng sử dụng ma túy nhưng chưa nhiễm HIV, các hỗ trợ tài chính bao gồm cung cấp tiền cho đối tượng mua ma túy, chi trả cho việc cai nghiện, ăn uống. Các hỗ trợ này chủ yếu vì trách nhiệm, ít tự nguyện và nhằm tránh cho đối tượng không phạm pháp như trộm cắp, lừa đảo. Tuy vậy, những gánh nặng về kinh tế trong giai đoạn này có thể làm xấu đi các mối quan hệ trong gia đình nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV:
“thì anh trai cũng không thích là cho tiền đâu, nhưng mà bây giờ em mình vật vã như thế thì nhìn nó lại khổ mà mình không cho không được, lại ra ngoài ăn cắp ăn trộm” ART_03, 34 tuổi).
“nói chung là lục đục lắm, cãi nhau suốt, mình thì cứ lăn lưng ra làm còn một đứa thì cứ tiêu. Ví dụ như ông ý làm thì ông ý không đưa tiền cho mình thì cũng chả sao, thôi thì bản thân ông nuôi ông ý. Thế nhưng mà ông ý cũng chẳng nuôi được ông ý, thì cái chuyện cãi nhau là chuyện bình thường (Gia đình 05, 41 tuổi).
Trong giai đoạn gia đình biết đối tượng đã nhiễm HIV, những hỗ trợ này khá tự nguyện, nhằm mục đích “bù đắp” nên gia đình không chỉ trợ cấp tiền điều trị bệnh mà còn sẵn sàng chu cấp cả tiền mua ma túy cho đối tượng “cứ nghĩ là nó chẳng sống được bao nhiêu nữa nên cô đi chợ được đồng nào thì cô cũng cho nó chơi hết” (Gia đình_10, 55 tuổi).
Khi đối tượng tham gia điều trị methadon và ngừng sử dụng ma túy, hỗ trợ của gia đình tập trung nhiều hơn vào việc cung cấp thuốc men, bồi bổ ăn uống nhằm cải thiện sức khỏe cho đối tượng hoặc mua xe máy, điện thoại và cung cấp tiền tiêu vặt hàng ngày cho đối tượng:
“Thì mẹ em mới tìm hiểu cái methadon này và mẹ em biết em bỏ chơi rồi thì lúc đó mới đi mua cho em 1 chiếc xe máy” (MMT_01, 31 tuổi).
2.2 Hỗ trợ về tình cảm, cảm xúc
Hỗ trợ tình cảm, cảm xúc trong giai đoạn đối tượng sử dụng ma túy (chưa nhiễm HIV) chỉ tập trung vào việc động viên, khuyến khích đối tượng đi cai nghiện. Khi những nỗ lực cai nghiện nhiều lần không thành công, gia đình chán nản và giảm dần sự quan tâm hoặc lảng tránh nhắc vấn đề sử dụng ma túy của đối tượng:
“Một số gia đình quan tâm còn muốn động viên người sử dụng ma túy là cố gắng nên từ bỏ ý. Nhưng một số trường hợp thì nói mãi, nói chán thì cũng mặc kệ thôi” (CBYT_08, 33 tuổi).
Khi biết đối tượng nhiễm HIV, những hỗ trợ về tình cảm của gia đình thể hiện qua việc quan tâm, chăm sóc và động viên đối tượng nhiều hơn, tránh nhắc tới tình trạng bệnh tật, tránh đề cập đến việc lấy vợ và sinh con vì sợ đối tượng buồn và suy nghĩ:
“nói thật trước đấy nó (vợ) còn thương ít nhưng bây giờ biết mình có bệnh nó còn thương nhiều hơn, quan tâm nhiều hơn” (COM_01, 41 tuổi).
“Ông bà anh sợ anh mặc cảm ấy, sợ anh buồn cho nên là ông bà không bao giờ đề cấp đến cái chuyện HIV gì cả” (MMT-05, 50 tuổi).
Bước sang giai đoạn điều trị methadon, đối tượng không còn sử dụng ma túy nên gia đình không phải chịu nhiều áp lực về kinh tế và tinh thần. Do vậy, gia đình bắt đầu khuyến khích đối tượng tham gia các hoạt động của gia đình và dòng họ, mua xe cho đi lại, cho phép cầm tiền hay tham gia vào các hoạt động kinh doanh của gia đình. đây là một sự hỗ trợ, động viên về tinh thần lớn với đối tượng:
“trước đây thì nghiện thì hàng ngày chỉ biết khoác áo ra đi để kiếm ma túy sử dụng, chả được nắm quyền hành, chả được làm gì trong nhà. Từ hai năm mình uống methadon, mẹ bàn giao hết tất cả trách nhiệm kinh tế gia đình cho mình. Kể cả cái sổ đỏ của nhà cũng đưa cho mình quản lý, giữ gìn. Cũng từ đấy trở đi mình quản lý và toàn quyền trong gia đình” (MMT_09, 37 tuổi).
2.3. Hỗ trợ thông tin liên quan đến điều trị nghiện chất và HIV
Gia đình có rất ít những hỗ trợ về thông tin liên quan đến điều trị nghiện chất và HIV cho nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV. Một số gia đình có biết về methadon hay điều trị ARV qua phường, qua các câu lạc bộ đồng cảm hay qua đài, tivi nhưng không nhiều. Nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV chủ yếu tìm kiếm thông tin qua đồng đẳng viên, bạn bè, nhân viên y tế hoặc internet và các chương trình thông tin đại chúng:
H: Thế còn về mặt thông tin liên quan đến sức khỏe, đến điều trị hay methadon thì ai cung cấp?
Đ: Thông tin thì là bác sĩ [..] còn mẹ thì cũng chẳng biết đâu, chỉ có em nói lại với mẹ thôi (MMT_10, 31 tuổi).
2.4. Hỗ trợ liên quan đến chăm sóc sức khỏe
Phân tích định tính cho thấy gia đình là nguồn hỗ trợ quan trọng trước và trong quá trình điều trị ARV và điều trị methadon của nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV. Mẹ và vợ là những người chăm sóc chính khi đối tượng mắc bệnh, giúp làm hồ sơ điều trị ARV/methadon. Trong quá trình điều trị ARV, gia đình nhắc nhở đối tượng uống thuốc đúng giờ, đi cùng và tham gia các buổi tư vấn các cơ sở điều trị:
“về chuyện uống thuốc thì đêm nào 9h cô cũng nhắc nó, không sợ nó quên, kể cả đi đâu cũng phải điện chỉ để nhắc nó uống thuốc. Cô cứ phải theo sát nó, thuốc thang mà hết là phải nhắc nó đi lấy thuốc” (Gia đình_10, 55 tuổi).
Theo nhận định của cán bộ y tế thì nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV có sự hỗ trợ của gia đình sẽ tiếp cận các dịch vụ y tế tốt hơn, tuân thủ điều trị hơn, ít bi quan, chán nản về bệnh tật hơn, từ đó sức khỏe sẽ được cải thiện hơn nhóm không nhận được nhiều sự hỗ trợ của gia đình:
“Cái nhóm được hỗ trợ thì cái tiếp cận đối với các dịch vụ y tế thì nó tốt hẳn lên” (CBYT_ 04, 57 tuổi).
“gia đình còn chăm sóc động viên, ngoài ăn uống chuyên cần thì nhắc nhở bệnh nhân đi khám lấy thuốc để bệnh nhân không bị lỡ liều” (CBYT_09, 51 tuổi).
3. Mong muốn của nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV về hỗ trợ của gia đình
Khi được hỏi về những hỗ trợ nào mà nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV mong muốn nhận được từ gia đình, phần lớn họ đều trả lời là việc gia đình cung cấp những hỗ trợ như hiện nay là đủ bởi họ cho rằng còn được gia đình quan tâm đã là “may mắn”. Tuy nhiên, cũng có nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV cho rằng việc hỗ trợ không nên chỉ giới hạn ở những nhu cầu thiết yếu mà cần phải quan tâm đến khía cạnh tâm lý:
“Gia đình không bao giờ, không chú tâm đến mình, ừ (họ cho rằng) đưa đi cai như thế, cho vài triệu đóng một tháng đi cai hoặc đi thăm các thứ là xong. Muốn đi sâu nâng đỡ anh thì phải tìm hiểu xem anh suy nghĩ như thế nào hay anh cần cái gì. Thì giữa anh với gia đình, các chị không có một tiếng nói chung, làm dần dần cứ xa lánh nhau thôi… thật sự nghĩ nhiều lúc bi quan lắm. Nhiều lúc cũng muốn tự tử để chết đi, để giải thoát cho mình và cho gia đình. Chán” (ART_09, 42 tuổi).
IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu định tính đã cho thấy một số phát hiện quan trọng có thể gợi mở hướng tiếp cận mới có tính đến vai trò của gia đình trong các can thiệp trên nhóm tiêm chích ma túy nhiễm HIV tại Việt Nam.
Nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV nhận được nhiều hỗ trợ hơn khi gia đình biết tình trạng nhiễm HIV của họ. Gia đình sẵn sàng cung cấp tài chính, khuyến khích động viên và chăm sóc sức khỏe đố(i tượng nhiều hơn so với giai đoạn họ sử dụng ma túy nhưng chưa nhiễm HIV. Hành vi sử dụng ma túy trong giai đoạn nam tiêm chích ma túy đã nhiễm HIV có vẻ dễ được chấp nhận hơn trong gia đình. Trong một nghiên cứu tiến hành năm 2010, Salter và đồng nghiệp cũng chỉ ra rằng một số đối tượng tiêm chích ma túy được gia đình chăm sóc và yêu thương hơn sau khi họ tiết lộ tình trạng nhiễm HIV của mình [8]. Ngoài ra, một số nghiên cứu khác trên nhóm bệnh nhân nhiễm HIV (không tiêm chích ma túy) cũng có cho thấy tiết lộ tình trạng nhiễm HIV sẽ tạo cơ hội cho họ nhận được nhiều sự hỗ trợ từ gia đình và bạn bè hơn [12 - 14]. Tuy nhiên, nghiên cứu của Li Li và cộng sự [15] lại đưa ra những điểm tương đối khác biệt với nghiên cứu này, là nhóm đối tượng nhiễm HIV đã ngừng sử dụng ma túy nhận được nhiều hỗ trợ và chăm sóc từ gia đình hơn, trong khi những đối tượng khác đang sử dụng hay tái nghiện ma túy có thể nhận sự “kỳ thị kép” (dual stigma) hoặc bị chối bỏ bởi gia đình.
Nghiên cứu này cũng đóng góp các bằng chứng khẳng định vai trò quan trọng của gia đình trong hỗ trợ đ ối tượng tiêm chích ma túy nhiễm HIV, bao gồm các hỗ trợ tài chính, chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ tinh thần. Mặc dù gia đình vẫn cung cấp tài chính cho đối tượng trong giai đoạn họ sử dụng ma túy, nhưng hỗ trợ này trở thành gánh nặng và làm xấu đi các mối quan hệ gia đình – phát hiện này tương tự một nghiên cứu đã được tiến hành tại Việt Nam [6]. Kết quả của nghiên cứu cũng cho thấy gia đình không có nhiều hỗ trợ thông tin liên quan đến điều trị ARV và nghiện chất. Việc cung cấp các thông tin cần thiết về điều trị nghiện chất và HIV cho các gia đình có thể thúc đẩy nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV tham gia và kết nối sớm hơn với các dịch vụ sức khỏe.
Kỳ thị và phân biệt đối xử với những người sử dụng ma túy có thể khiến nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV “nội tâm hóa” (internalized) sự kỳ thị đó và tự kỳ thị bản thân mình [16]. Giải thích này khá phù hợp với phân tích của nghiên cứu khi phần lớn các nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV khá thỏa mãn và họ cảm thấy mình “may mắn” khi còn được gia đình quan tâm và hỗ trợ. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng việc hỗ trợ nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV không nên chỉ dừng lại ở các hỗ trợ mang tính vật chất hay cung cấp các nhu cầu thiết yếu mà cần phải bao gồm cả những quan tâm đến khía cạnh tâm lý, tôn trọng và chia sẻ với đối tượng.
V. KẾT LUẬN
Hỗ trợ của gia đình đối với nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV có ý nghĩa quan trọng trên các phương diện tài chính, tình cảm và chăm sóc sức khỏe. Hỗ trợ về thông tin liên quan đến điều trị nghiện chất và chăm sóc HIV còn hạn chế. Tính chất và mức độ của các hỗ trợ này có sự khác biệt qua các giai đoạn sử dụng ma túy, nhiễm HIV/điều trị ART và điều trị nghiện chất. Tiết lộ tình trạng nhiễm HIV đem lại hiệu quả tích cực, giúp các nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV nhận được nhiều hỗ trợ từ gia đình hơn. Từ các kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi khuyến nghị rằng 1) các can thiệp trên nhóm đối tượng tiêm chích ma túy nhiễm HIV cần quan tâm hơn đến việc huy động nguồn lực gia đình trong chăm sóc HIV và điều trị nghiện chích ; 2) các can thiệp này không nên chỉ chú ý đến các khía cạnh điều trị nghiện chất và chăm sóc HIV mà còn cần hỗ trợ đối tượng trong việc đương đầu và giải quyết vấn đề tự kỳ thị hoặc suy nghĩ tiêu cực. Trong nghiên cứu này, do nhóm nghiên cứu không tiếp cận được với nhóm đối tượng nam nghiện chích trẻ (dưới 30 tuổi) nên việc so sánh những hỗ trợ của gia đình trên các nhóm đối tượng theo độ tuổi còn bị hạn chế.
Bảng 1. Một số đặc điểm nhân khẩu học của nam tiêm chích ma túy nhiễm HIV.
| n | % | |
|---|---|---|
| Độ tuổi | ||
| 30 – 35 | 13 | 43,3 |
| 36 - 40 | 9 | 30,0 |
| > 40 | 8 | 26,7 |
| Tình trạng hôn nhân | ||
| Chưa lập gia đình | 14 | 46,7 |
| Ly dị | 6 | 20,0 |
| Ly thân | 1 | 3,3 |
| đã kết hôn | 8 | 26,7 |
| Góa | 1 | 3,3 |
| Tình trạng việc làm | ||
| Có việc làm | 17 | 56,8 |
| Thất nghiệp | 13 | 43,3 |
| Thời gian sử dụng ma túy | ||
| < 5 năm | 3 | 10,0 |
| 5 - 10 năm | 3 | 10,0 |
| > 10 năm | 24 | 80,0 |
| Sử dụng dịch vụ điều trị | ||
| Methadon | 2 | 6,7 |
| OPC | 6 | 20,0 |
| Methadon và OPC | 12 | 40,0 |
| Chưa điều trị | 10 | 33,3 |
Acknowledgments
Lời c ả m ơn: Nghiên cứu là đề tài hợp tác giữa Trung tâm Nghiên cứu & đào tạo HIV/AIDS, Trường đại học Y Hà Nội với nhóm nghiên cứu thuộc đại học Columbia và đại học Miami (Hoa Kỳ) do Viện Sức khỏe Quốc gia Hoa Kỳ tài trợ (R03 DA037783-01). Nhóm tác giả xin trân trọng cảm ơn các lãnh đạo thuộc cơ sở me- thadon, cơ sở điều trị ngoại trú HIV và các nhóm cộng đồng đã tạo điều kiện cho nghiên cứu triển khai. Chúng tôi đặc biệt cảm ơn những người đã đồng ý tham gia và cung cấp các thông tin quan trọng cho nghiên cứu.
References
- 1.Vietnam Administration of AIDS control. Báo cáo tổng kết công tác phòng, chống HIV/AIDS năm 2013 và định hướng kế hoạch 2014 2013 [Google Scholar]
- 2.Wolfe D, Carrieri MP, Shepard D. Treatment and care for injecting drug users with HIV infection: a review of barriers and ways forward. Lancet. 2010;376:355–366. doi: 10.1016/S0140-6736(10)60832-X. [DOI] [PubMed] [Google Scholar]
- 3.Nguyen DB, Do NT, Shiraishi RW, et al. Outcomes of antiretroviral therapy in Vietnam: results from a national evaluation. PloS One. 2013;8 doi: 10.1371/journal.pone.0055750. [DOI] [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
- 4.Mimiaga MJ, Safren SA, Dvoryak S, et al. We fear the police, and the police fear us”: structural and individual barriers and facilitators to HIV medication adherence among injection drug users in Kiev, Ukraine. AIDS Care. 2010;22:1305–1313. doi: 10.1080/09540121003758515. [DOI] [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
- 5.Chakrapani V, Velayudham J, Shunmugam M, et al. Barriers to antiretroviral treatment access for injecting drug users living with HIV in Chennai, South India. AIDS Care. 2014;26:835–841. doi: 10.1080/09540121.2013.861573. [DOI] [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
- 6.Li L, Tuan NA, Liang LJ, et al. Mental health and family relations among people who inject drugs and their family members in Vietnam. Int J Drug Policy. 2013;24:545–549. doi: 10.1016/j.drugpo.2013.06.007. [DOI] [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
- 7.Lee SJ, Li L, Lin C, et al. Challenges facing HIV-positive persons who use drugs and their families in Vietnam. AIDS Care. 2015;27:283–287. doi: 10.1080/09540121.2014.963015. [DOI] [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
- 8.Salter ML, Go VF, Minh NL, et al. Influence of Perceived Secondary Stigma and Family on the Response to HIV Infection Among Injection Drug Users in Vietnam. AIDS Educ Prev. 2010;22:558–570. doi: 10.1521/aeap.2010.22.6.558. [DOI] [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
- 9.Bộ Y tế. Tối ưu hóa đáp ứng với dịch HIV/AIDS ở Việt Nam: Chiến lược đầu tư cho phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhì 2030 2014 [Google Scholar]
- 10.Heaney CA, Israel BA. Health behavior and health education: Theory, research, and practice. 4th. Jossey - Bass; San Francisco: 2008. Social networks and social support. [Google Scholar]
- 11.House JS. Work Stress and Social Support. Addison-Wesley Longman, Incorporated; 1981. [Google Scholar]
- 12.Schrimshaw EW, Siegel K. Perceived Barriers to Social Support from Family and Friends among Older Adults with HIV/AIDS. J Health Psychol. 2003;8:738–752. doi: 10.1177/13591053030086007. [DOI] [PubMed] [Google Scholar]
- 13.Lee S, Yamazaki M, Harris DR, et al. Social Support and Human Immunodeficiency Virus-Status Disclosure to Friends and Family: Implications for Human Immunodeficiency Virus-Positive Youth. J Adolesc Health. 2015;57:73–80. doi: 10.1016/j.jadohealth.2015.03.002. [DOI] [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
- 14.Maman SR, HeidiGroves Allison K. HIV status disclosure to families for social support in South Africa. AIDS Care. 2014;26:226–232. doi: 10.1080/09540121.2013.819400. [DOI] [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
- 15.Li X, Wang H, He G, et al. Shadow on My Heart: A Culturally Grounded Concept of HIV Stigma Among Chinese Injection Drug Users. J Assoc Nurses AIDS Care. 2012;23:52–62. doi: 10.1016/j.jana.2011.07.002. [DOI] [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
- 16.Rudolpha AE, Davisa WW, Quana VM, et al. Perceptions of community and family level IDU and HIV related stigma, disclosure decisions and experiences with layered stigma among HIV positive injection drug users in Vietnam. AIDS Care. 2012;24:239–244. doi: 10.1080/09540121.2011.596517. [DOI] [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
